Monday, February 17, 2014

Sạch răng thơm miệng qua ăn uống

Bên cạnh đánh răng , bạn có thể dùng thực phẩm để đánh bật hôi miệng. Có một số cách giúp giữ hơi thở thơm tho, theo hãng tin Times News Network.



Vitamin C trong trái cây giúp hơi thở thơm tho - Ảnh: Shutterstock

Cam, chanh, kiwi, bưởi, quýt... có tác dụng sạch răng thơm miệng. Vitamin C trong các loại quả này có công dụng kháng khuẩn. Đây cũng là chất chống ô xy hóa giúp giảm các độc tố trong cơ thể, gồm cả độc tố do vi khuẩn trong miệng sản sinh. Bạn có thể ăn hoặc vắt nước uống vì đều có công dụng giống nhau.

Các loại gia vị và thảo mộc giúp chống hôi miệng trong thời gian lâu. Bạn có thể tìm đến bạch đậu khấu, thì là, bạc hà, rau mùi tây, quế, đinh hương...

Dùng nước để súc miệng nhưng chỉ súc nhẹ, tránh gây ồn. Thường là khi bị mất nước, lượng nước bọt giảm đi. Điều này là do cơ thể cố giữ ẩm. Tuy nhiên, nước bọt có tác dụng làm sạch miệng khi giúp loại bỏ bớt vi khuẩn gây hơi thở hôi.

Lợi khuẩn probiotics có trong sữa chua giúp loại bỏ hôi miệng. Lactobacillus salivarius cũng hữu ích trong các vấn đề liên quan tới răng lợi. Nó giúp chữa lành vết loét trong miệng. Răng lợi có vấn đề khiến vi khuẩn dễ sinh sôi nảy nở trong miệng và từ đó sẽ làm cho hơi thở có mùi tệ hại.

Ăn một số loại rau củ như bông cải xanh, cà rốt và dưa leo giúp bạn tự tin hơn khi trò chuyện vì làm giảm lượng vi khuẩn trong miệng. Nhai rau củ giúp tăng tiết nước bọt, ngừa vi khuẩn. Ăn táo cũng giúp kích thích tiết nước bọt. Lượng nước bọt nhiều sẽ giúp diệt bớt vi khuẩn.

Bánh mì là thực phẩm không thể thiếu trong dinh dưỡng cải thiện hơi thở. Ăn bánh mì ngăn hình thành ketone, chất được tiết trong nước tiểu, mồ hôi, miệng và gây mùi khó chịu đặc trưng cho hơi thở. Ăn bánh mì giúp kiểm soát ketone và giúp giữ hơi thở thơm tho.

Trà xanh rất giàu chất flavonoid giúp ngăn chặn và làm giảm sự kết dính của các vi khuẩn gây mùi cho răng miệng. Trà quế rất hữu ích trong việc giữ cho miệng và hơi thở thơm tho.

Bạch quả trị khí hư, di tinh

Cây bạch quả còn gọi là cây ngân hạnh (Ginkgo biloba L.), là loại cây được dùng làm thuốc chống lão suy, tăng tuần hoàn não... Ngoài ra, hạt chín già của cây bạch quả (bạch quả, bạch quả nhân, ngân hạnh nhân) cũng là vị thuốc quý của cả nam và nữ.

Theo Đông y, bạch quả vị ngọt, đắng, sáp, tính bình, có ít độc; vào kinh phế. Tác dụng liễm phế khí, chỉ xuyễn khái, thu súc tiểu tiện, chỉ bạch đới, lâm trọc. Dùng cho các trường hợp hen suyễn, lao phổi, di tinh di niệu, khí hư bạch đới. Hằng ngày có thể dùng 4 - 12g bằng cách ăn sống, nướng, rang, sắc, nấu.

Bạch quả.

Chữa khí hư, bạch đới: đậu ván trắng 63g, bạch quả 12g, lõi thân và cành hướng dương 16g. Sắc lấy nước, thêm ít đường đỏ vào để uống.

Chữa di mộng tinh: bạch quả 3 hạt, đồ chín bằng hơi rượu rồi ăn. Ngày làm 1 lần, ăn liền 4 - 7 ngày.

Chữa viêm phế quản mạn tính, hen phế quản, ho nhiều đờm: bạch quả (đập vỡ) 16g, khoản đông hoa 12g, bán hạ chế 12g, ma hoàng 8g, hoàng cầm 8g, vỏ rễ dâu 12g, hạt tía tô 12g, hạnh nhân 12g, cam thảo sống 8g. Sắc uống.

Món ăn - bài thuốc có bạch quả:

Cháo bạch quả, liên nhục: bạch quả 6g, liên nhục 15g, gạo tẻ 50g, gà giò 1 con (làm sạch bỏ ruột). Đem bạch quả, liên nhục tán bột cho trong bụng gà buộc khâu lại, cho gạo, thêm nước, hầm nhỏ lửa cho chín nhừ, thêm mắm muối gia vị cho ăn. Chia ăn nhiều lần trong ngày, 1 - 2 lần/tuần. Dùng cho phụ nữ sa tử cung, khí hư bạch đới.

Gà hầm bạch quả, ý dĩ nhân: gà sống giò 1 con (khoảng 1kg), bạch quả 12g, ý dĩ 20g, bạch biển đậu 20g. Gà làm sạch, các dược liệu cho trong bụng gà buộc lại, thêm bột tiêu gia vị và nước. Hầm nhỏ lửa cho chín nhừ. Cho ăn khi đói trong ngày (2 lần). Ăn liên tục 4 - 5 ngày. Dùng cho phụ nữ bị khí hư bạch đới.

Gà hầm hạt sen, bạch quả: thịt gà 100g, rượu trắng 30ml, hạt sen (bỏ tâm) 10g, bạch quả nhân 10g, thêm nước, hầm nhỏ lửa, thêm gia vị mắm muối. Chia ăn 1 - 2 lần trong ngày. Dùng cho phụ nữ cơ thể suy nhược, khí hư bạch đới.

Thịt lợn hầm bạch quả, sa sâm: bạch quả 15g, ngọc trúc 15g, mạch đông 9g, bắc sa sâm 15g, hạnh nhân 15g, thịt lợn nạc 60g, gia vị liều lượng thích hợp. Đem ngọc trúc, mạch đông, bắc sa sâm nấu lấy nước, bỏ bã; nấu với hạnh nhân, bạch quả và thịt lợn. Cứ 2 - 3 ngày cho ăn một lần. Dùng cho các bệnh về mũi họng: viêm họng hạt, viêm mũi họng dị ứng, ung thư vùng mũi họng.

Sirô bạch quả mật ong: bạch quả 10 hạt, bóc bỏ vỏ cứng, thêm nước nấu chín, thêm mật ong khuấy đều. Cho ăn mỗi tối một lần, dùng cho các bệnh nhân hen phế quản, lao phổi có ho suyễn.


Kiêng kỵ: Không nên dùng nhiều trong 1 lần, phòng ngộ độc; đặc biệt là trẻ em. Nếu bị ngộ độc bạch quả, có thể thấy các triệu chứng: nhức đầu, phát sốt, co rút gân, bứt rứt khó chịu, nôn mửa, khó thở...; phải lấy ngay 125g cam thảo hoặc 63g vỏ quả bạch quả sắc uống để giải độc.

Phòng bệnh mùa lạnh cho trẻ

Mùa đông – xuân, thời tiết diễn biến bất thường, chính là điều kiện thuận lợi để nhiều loại virus phát triển mạnh khiến nhiều người thấy mệt mỏi, đau ốm, đặc biệt là trẻ em, do sức đề kháng của cơ thể cũng có phần giảm sút.

Cảm mạo Gây ra nghẹt mũi, chảy nước mũi, ho, đau đầu, sốt, sợ lạnh, toàn thân khó chịu. chịu. Để đề phòng cảm mạo phong hàn cho trẻ trong mùa đông, phải luôn giữ ấm cho trẻ, cho trẻ ăn uống nóng và đầy đủ chất dinh dưỡng. Không để trẻ ra nơi lạnh, có gió. Ban đêm đi ngủ phải chú ý cho trẻ đi tất và không nằm nơi có gió lùa.

Viêm mũi Ban đầu trẻ bị ngứa mũi, hắt hơi từng tràng hoặc từng cái một, nặng đầu, đau mỏi chân tay. Sốt khoảng 39oC. Ban ngày thì nằm lịm, ban đêm thì quấy khóc bắt mẹ phải bế luôn trên tay. Nếu ở trẻ mới sinh, mũi dễ bị tắc do lỗ mũi rất nhỏ, trong khi đó trẻ lại chưa có thói quen thở bằng miệng nên rất dễ bị khó thở, trẻ quấy khóc, có hiện tượng co kéo ở thượng ức và thượng đòn. Hai hốc mũi trẻ sung huyết đỏ và ứ đọng nhiều dịch.




Phải mặc đủ ấm cho trẻ khi ra đường.


Viêm VA :Thường xảy ra ở trẻ từ 6 - 7 tháng tuổi đến 4 tuổi nhưng cũng có khi gặp ở trẻ lớn hơn. Trẻ bị sốt 38 – 39oC, cũng có thể sốt cao hơn, chảy mũi, lúc đầu chảy mũi trong, loãng, những ngày sau thường chảy mũi nhầy, mủ. Trẻ cũng bị nghẹt mũi, dấu hiệu này được thấy rõ hơn khi trẻ ngủ. Ở những trẻ còn bú mẹ, dấu hiệu nghẹt mũi còn thấy khi trẻ muốn bú mẹ nhưng ngậm vú thì không thở được nên trẻ lại phải nhả vú mẹ ra để thở, và tất nhiên là trẻ sẽ khóc. Bệnh thường kèm theo ho, nếu có biến chứng viêm phế quản, ho sẽ trở nên trầm trọng hơn nhiều. Ngoài ra, có thể thấy trẻ mệt mỏi, biếng ăn, quấy khóc, hơi thở hôi. Tùy mức độ bệnh của trẻ mà bác sĩ ra chỉ định như: điều trị bằng thuốc hạ sốt nếu trẻ sốt cao trên 38oC, các thuốc làm loãng đờm giảm ho, các thuốc nhỏ mũi. Ngoài ra, việc làm sạch mũi thường xuyên là rất quan trọng. Dùng kháng sinh phải do thầy thuốc chỉ định trong những trường hợp nặng, có biến chứng hoặc đe dọa biến chứng.

Viêm amiđan

Trẻ bị viêm amiđan cấp sẽ sốt cao từ 39 – 40oC, đau họng, khó nuốt, chảy nước miếng nhiều, mệt mỏi, biếng ăn, biếng chơi. Viêm amiđan rất dễ gây biến chứng nếu không được điều trị đúng.

Viêm họng cấp

Triệu chứng đầu tiên là đau họng khi nuốt, kèm theo sốt, khàn tiếng. Nguyên nhân gây bệnh là loại vi khuẩn liên cầu tan máu beta nhóm A. Bệnh có thể gây đau khớp, biến chứng dẫn đến bệnh thấp tim ở trẻ em.

Viêm phế quản

Có thể xảy ra ở bất cứ lứa tuổi nào, thường sau khi thay đổi thời tiết, hoặc bị viêm họng, viêm mũi... Nhiều trường hợp trẻ chỉ sổ mũi trong, ho nhẹ vài cái, vẫn chơi và ăn uống bình thường. Nếu tình trạng này kéo dài, không điều trị đúng, trẻ dễ dẫn đến biến chứng bội nhiễm vi trùng gây viêm phế quản phổi rất nguy hiểm.

Bệnh suyễn (hen phế quản)

Thường gặp ở trẻ có cơ địa dị ứng như: có bệnh chàm, nổi mề đay, ngứa... Khó thở là biểu hiện điển hình, khó thở làm phập phồng cánh mũi, gây co kéo hõm ức, tiếng thở khò khè, môi tím, vẻ mặt sợ hãi. Nhiều trường hợp khó thở cấp tính cần xử trí cấp cứu kịp thời.

Để phòng tránh các bệnh trong mùa lạnh cho trẻ, các bậc cha mẹ cần chăm sóc trẻ chu đáo hơn, tránh nhiễm lạnh, giữ ấm và đặc biệt là gió lạnh khi chiều về. Cho trẻ mặc ấm, giữ không cho bị lạnh ngực, tránh nơi gió lùa. Không để chân trẻ bị ẩm ướt hoặc bị lạnh, nhất là khi đi ngủ. Tăng cường sự dinh dưỡng, nhất là cho trẻ ăn các thức ăn nóng. Cần vệ sinh ăn uống và răng miệng cho trẻ thường xuyên để tránh nhiễm trùng. Hơn nữa, thói quen ngoáy mũi và bú tay của trẻ cần được khắc phục triệt để. Theo dõi và thực hiện theo đúng chỉ định của bác sĩ tránh để những biến chứng không đáng có xảy ra.
                                                                                                                

Nhận biết trẻ mắc sởi, cách nào ?

Từ đầu năm đến nay, bệnh viện Nhi Trung ương liên tục tiếp nhận các trường hợp mắc sởi phải nhập viện, từ 10 trường hợp trong tháng 1, đến thời điểm này đã lên đến hơn 150 ca. Đáng lo ngại là nhiều bệnh nhi có biến chứng viêm phổi nặng, thậm chí tử vong song lại có thể bệnh không điển hình về đặc điểm bệnh.

Năm 2009, dịch sởi bùng phát trên cả nước với hơn 7.500 ca bệnh được ghi nhận. Hiện tại, trong những tháng đầu năm 2014, sau 5 năm, dịch sởi cũng đã quay trở lại với diễn biến ngày càng phức tạp. Số lượng trẻ nhập viện vì các biến chứng do sởi ngày càng tăng ở tất cả các bệnh viện Nhi trong cả nước. Tại khoa Nhi, bệnh viện Bạch Mai, khoảng 1 tuần trở lại đây, có ngày khoa tiếp nhận tới 15-20 trẻ bị sởi, phát ban dạng sởi đến khám. Tương tự, tại khoa Truyền Nhiễm, bệnh viện Nhi Trung Ương đã có hơn 150 ca nhập viện do sởi có biến chứng nặng. Trong tổng số hơn 100 bệnh nhân nằm tại khoa thì có đến hơn 50% là trẻ mắc sởi, có 4-5 trường hợp tử vong do viêm phổi.

Điểm đặc biệt trong đợt dịch này là rất nhiều trường hợp không điển hình và có những diễn biến nặng doviêm phổi có thể dẫn đến tử vong. Để tránh những biến chứng nặng của mắc sởi và đảm bảo sức khỏe cho trẻ, cha mẹ nên lưu ý:

1. Theo dõi sát, tránh để con tiếp xúc với nguồn lây bệnh, chú ý các triệu chứng đặc trưng của sởi, dấu hiệu khởi phát có thể là sốt, viêm long đường hô hấp, viêm kết mạc hoặc viêm thanh quản (một trong những triệu chứng rất hay gặp ở trẻ bị sởi, trẻ sẽ khóc khàn tiếng).

Ngoài ra khi có biểu hiện sốt phát ban cần đưa trẻ đến khám chuyên khoa để được tư vấn về chăm sóc, điều trị tránh các biến chứng nặng có thể xảy ra.



2. Đối những trường hợp mắc sởi nhẹ không cần phải nhập viện mà được hướng dẫn điều trị tại nhà nên cha mẹ đừng quá lo lắng, không nên nhập viện trong thời điểm này khi các khoa truyền nhiễm đều rất đông bệnh nhân sởi và nguy cơ lây nhiễm các nhiễm trùng bệnh viện làm nặng hơn tình trạng của trẻ là rất cao. Cần cách ly, hạn chế tiếp xúc , người lớn chưa được miễn dịch với sởi cũng có nguy cơ cao mắc bệnh nên vẫn phải đeo khẩu trang khi tiếp xúc.

3. Vì nhiều lý do, thời gian gần đây, nhiều quan niệm rằng tiêm vắc xin là nguy hiểm, nên nhiều cha mẹ không cho con đi tiêm chủng đầy đủ, dẫn tới nguy cơ mắc những bệnh vốn được coi là đã được thanh toán tại nước ta trở lại là rất cao. Vì vậy, cha mẹ cần đặc biệt lưu ý, cần cho trẻ đi tiêm chủng đầy đủ theo chương trình của Bộ Y tế, tránh các quan điểm sai lầm có thể gây nguy hiểm cho trẻ sau này.

Tiêm phòng sởi 1 mũi chưa đủ khả năng tạo miễn dịch cao cho trẻ, cần tiêm đủ 2 mũi theo chương trình Tiêm chủng mở rộng vào lúc 9 tháng tuổi và lần thứ hai vào 18 tháng tuổi.

4. Tuổi mắc bệnh thông thường của trẻ là từ sau 6 tháng do dưới 6 tháng tuổi, con vẫn còn miễn dịch từ mẹ truyền sang nếu bú mẹ sẽ bảo vệ cho con, tuy nhiên trong các trường hợp mắc bệnh gần đây, số trẻ mắc bệnh trong tuổi bú mẹ khá nhiều, có thể do mẹ chưa tiêm phòng sởi, chưa có đáp ứng miễn dịch với sởi nên vẫn chưa có kháng thể bảo vệ con.

Mặc dù tuổi tiêm vắc xin sởi là 9 tháng tuổi, nhưng vẫn có thể tiêm vắc xin sởi cho trẻ bú sữa mẹ, và trẻ dưới 9 tháng tuổi. Chỉ tiêm vắc xin sởi cho trẻ dưới 9 tháng tuổi khi có chỉ đạo của chương trình Tiêm chủng mở rộng trong trường hợp cần thiết. Tất cả các trường hợp tiêm vắc xin sởi trước 9 tháng tuổi cần tiêm ngay vắc xin khi đủ 9 tháng tuổi. Mũi tiêm trước 9 tháng tuổi không được tính là 1 mũi vắc xin. Những trẻ trên 18 tháng tuổi chưa tiêm đủ hai mũi vắc xin sởi cần tiêm đủ mũi càng sớm càng tốt.

Phụ nữ cho con bú có thể tiêm vắc xin sởi do kháng thể được tạo ra bảo vệ mẹ và bài tiết qua sữa để bảo vệ trẻ khỏi mắc sởi khi trẻ chưa thể tự tạo miễn dịch.

5. Đặc biệt lưu ý những trường hợp không được tiêm vắc xin do vắc xin sởi là sống giảm độc lực. Sau tiêm vắc xin trẻ có thể bị nhiễm sởi nhưng ở mức độ nhẹ và thường không gây lây nhiễm. Phản ứng nghiêm trọng sau tiêm vắc xin sởi là rất hiếm gặp nhưng cũng có thể xảy ra.

Các trường hợp sốt, nhiễm trùng cấp tính đang tiến triển cần tạm hoãn tiêm. Khi khỏi có thể tiêm được.

- Không tiêm khi có dị ứng với vắc xin

- Không nên tiêm cho phụ nữ có thai

- Không tiêm cho các trường hợp suy giảm miễn dịch

6. Những trường hợp đã được xét nghiệm huyết thanh tìm IgM kháng sởi và có kết quả xét nghiệm dương tính không cần tiêm vắc xin sởi.

Những trường hợp nghi ngờ mắc sởi trước đây nhưng không được chẩn đoán mắc sởi vẫn cần tiêm vắc xin sởi.

Khi tiêm vắc xin sởi, nếu vì lý do nào đó (như trẻ quấy đạp) làm thuốc tiêm vào không đủ liều cũng không được tiêm lại bù mà phải đợi đến mũi vắc xin thời điểm kế tiếp.

7. Nếu đã tiếp xúc với nguồn bệnh có virus sởi, vắc xin có thể phòng bệnh nếu tiêm trong vòng 72 giờ kể từ khi tiếp xúc. Việc tiêm vắc xin trong vòng 6 ngày kể từ khi tiếp xúc có thể phòng biến chứng nặng của bệnh.



8. Nếu không có các biến chứng thì điều trị sởi quan trọng nhất là chăm sóc cho trẻ, đảm bảo vệ sinh da, mắt, miệng, họng… đảm bảo đủ dinh dưỡng nâng sức đề kháng cho trẻ, dùng vitamin A tránh biến chứng về mắt do sởi gây nên, cung cấp đủ dịch và cách ly chặt chẽ trong suốt giai đoạn có viêm long đường hô hấp cho đến ít nhất 4 ngày sau khi phát ban.

Cần sa có thể chặn đứng lây nhiễm HIV?

Cần sa được sử dụng lén lút để bào chế ma túy, nhưng giờ đây nó có thể được sử dụng để chữa trị HIV và một số bệnh ung thư..

Theo Huffingtonpost đã đưa tin, các nhà nghiên cứu thuộc đại học bang Louisiana (Mỹ) vừa công bố có thể ngăn chặn sự lây nhiễm của căn bệnh thế kỷ HIV nhờ vào thành phần hoạt chất có trong cây cần sa. Thông tin được đăng tải trên tạp chí AIDS Research and Human Retroviruses vào tuần trước và đã giành được sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng, nhất là những ai đang mang trong mình căn bệnh quái ác này. Đây cũng là tín hiệu đáng mừng cho ngành y học của thế giới khi phải vật lộn với bệnh HIV trong thời gian dài mà vẫn chưa tìm ra giải pháp hữu hiệu.


Cây cần sa còn có tên gọi khác là: tài mà, gai dầu, gai mèo, đại ma...

Các nhà khoa học đã tìm ra tổ hợp chất THC có trong cần sa có thể ngăn chặn sự lây lan của HIV. Họ đã tiêm hợp chất này vào những con khỉ mang vi rút lây bệnh. Sau thời gian theo dõi, các nhà nghiên cứu bất ngờ phát hiện ra rằng, các mô miễn dịch trong dạ dày (khu vực được chú trọng trong cơ thể người bị HIV) được tăng cường. Những con khỉ được tiêm hợp chất có tuổi thọ dài hơn những con khác. Điều này đồng nghĩa với việc sự lây lan của bệnh HIV giảm xuống đáng kể.


Hoa cần sa

Tiến sĩ Patricia Molina – người đứng đầu nghiên cứu nói rằng hợp chất tìm thấy trong THC có khả năng ngăn chặn các vi rút giết chết các tế bào miễn dịch. Vì vậy, các bệnh nhân nhiễm HIV có thể được cứu chữa ngay cả những người đang ở giai đoạn cuối.



Năm ngoái, một bác sĩ chuyên khoa người Anh cũng tìm ra hợp chất có thể ngăn chặn các tế bào gây ung thư ở bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu. Thêm vào đó, Trung tâm Y tế Thái Bình Dương ở San Franciscocũng tuyên bố tìm thấy các thành phần có thể chữa trị bệnh ung thư khác trong cây cần sa.